Dịch tả vịt là một căn bệnh truyền nhiễm cấp tính gây ra bởi một loại virus có khả năng lan truyền nhanh chóng trong đàn vịt. Nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời, bệnh này sẽ dẫn đến tỷ lệ chết cao và giảm sản lượng trứng. Bài viết dưới đây của Loài Vật AZ sẽ cung cấp thông tin chi tiết về bệnh dịch tả vịt và cách điều trị hiệu quả.
Bệnh dịch tả vịt là gì?
Dịch tả vịt (DVE) là một bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng do virus thuộc nhóm Herpes gây ra. Bệnh này ảnh hưởng đến vịt, ngan, và ngỗng, với các triệu chứng như sốt cao, sưng đầu, chảy nước mắt, chân yếu, bại liệt, và tiêu chảy phân xanh.
Năm 1923, Baudet đã báo cáo về một dịch bệnh cấp tính gây xuất huyết trong đàn vịt tại Hà Lan. Mặc dù không phân lập được virus, ông đã chứng minh khả năng lây lan của bệnh qua dịch lọc từ gan vịt mắc bệnh. Đến năm 1930, DeZeeuw xác nhận phát hiện của Baudet và khẳng định virus có khả năng gây bệnh đặc biệt ở vịt.
Năm 1942, Bos tiến hành kiểm chứng lại các phát hiện trước đó và mô tả chi tiết triệu chứng, bệnh tích và đáp ứng miễn dịch của vịt bị nhiễm bệnh, kết luận rằng nguyên nhân gây bệnh là một loại virus mới khác với virus cúm. Ông đề nghị gọi virus này là dịch tả vịt “duck plague”.
Bệnh dịch tả vịt đã được ghi nhận ở nhiều quốc gia như Pháp (1949), Trung Quốc (1958), Ấn Độ (1963), và nhiều nước châu Âu khác. Tại Việt Nam, bệnh đã xuất hiện từ năm 1969 và lan rộng trên toàn quốc, gây thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi vịt.
Nguyên nhân gây bệnh
Dịch tả vịt do virus thuộc nhóm Herpes trong họ Alphaherpesvirinae gây ra. Virus này có sức đề kháng cao, bị tiêu diệt bởi dung dịch Formalin 3%, nhiệt độ 56°C trong 10 phút, nhiệt độ 50°C trong 90-120 phút, và có thể tồn tại 30 ngày ở nhiệt độ 22°C. Các chủng virus khác nhau về độc lực, với loại độc lực cao, vừa và thấp. Virus lây lan qua môi trường thông qua phân và các dịch thẩm xuất từ miệng, mũi của vịt nhiễm bệnh.
Biểu hiện của bệnh dịch tả vịt
Triệu chứng lâm sàng: Vịt bị bệnh thường tiêu chảy.
Bệnh tích:
- Xác chết gầy, đầu và cổ sưng, tụ máu tím bầm, tổ chức dưới da thấm nước keo nhầy, màu hồng nhạt.
- Da vùng đầu, cổ, ngực, bụng, đùi xuất huyết lấm tấm như muỗi đốt.
- Niêm mạc hầu, họng, thực quản viêm, xuất huyết, có vết loét phủ màng giả màu vàng xám.
- Dạ dày tuyến phủ nhiều dịch nhớt, niêm mạc xuất huyết.
- Dạ dày cơ xuất huyết nặng.
- Niêm mạc ruột viêm cata, tụ máu, xuất huyết, có vết loét.
- Gan màu nâu nhạt, có chấm hoại tử, sưng tụ máu, xuất huyết; túi mật sưng, lách teo nhỏ, có chấm hoại tử.
- Tuyến ức có nhiều điểm xuất huyết và hoại tử.
- Túi Fabricius có dịch màu vàng, niêm mạc túi mỏng và xuất huyết.
- Thận và tuyến tụy ít bị ảnh hưởng, xoang bụng có dịch thẩm xuất màu vàng.
- Ở vịt đẻ, mạch máu buồng trứng căng phồng, xuất huyết; trứng non méo mó, noãn hoàng vỡ chứa đầy trong xoang bụng.
Chẩn đoán bệnh
Chẩn đoán lâm sàng
Để chẩn đoán bệnh dịch tả vịt, cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và kiểm tra bệnh tích sau khi mổ. Tuy nhiên, cần phân biệt với một số bệnh khác như viêm gan virus vịt, dịch tả ngỗng, tụ huyết trùng gia cầm, và cúm gia cầm thể độc lực cao.
Chẩn đoán phi lâm sàng
Sử dụng các phương pháp huyết thanh học như phản ứng miễn dịch huỳnh quang, ELISA, và phản ứng ngưng kết hồng cầu gián tiếp để chẩn đoán bệnh. Phương pháp PCR cũng được áp dụng với kỹ thuật iiPCR thực địa cho kết quả nhanh và chính xác trong vòng 1-2 giờ, tương đương với các kỹ thuật PCR trong phòng thí nghiệm.
Phòng bệnh
Ở những khu vực chưa bùng phát dịch, nên tự sản xuất con giống để đảm bảo an toàn. Tránh để thức ăn, chuồng nuôi và bãi chăn bị ô nhiễm. Không nên chăn thả vịt ở những nơi đã có dịch. Đối với những trại có số lượng vịt lớn, cần tăng cường vệ sinh chuồng trại và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định phòng bệnh.
Hiện nay, hai chủng virus nhược độc được sử dụng để chế tạo vaccine phòng bệnh. Ở những nơi ít bị dịch, vịt nuôi thịt được tiêm vaccine một lần khi nở. Đối với vịt đẻ và giống, cần tiêm nhắc lại sau 45 ngày và sau mỗi 6 tháng trước khi vào vụ đẻ. Tiêm phòng vaccine rất quan trọng và an toàn. Khi dịch xảy ra, có thể tiêm vaccine dịch tả vịt vào ổ dịch để cứu sống vịt, nhưng hiện nay đã có kháng thể dịch tả vịt thương mại nên phương pháp này ít được sử dụng.
Cách điều trị bệnh dịch tả vịt
Việc điều trị bệnh dịch tả vịt hiện nay đã trở nên đơn giản và hiệu quả hơn nhờ vào kháng thể dịch tả vịt thương mại, giúp giảm thiệt hại đáng kể.
Khi vịt mắc bệnh, cần tăng cường thể trạng và sức đề kháng bằng cách cung cấp đường gluco, chất điện giải, vitamin và Butafosfan B12.
- Với vịt dưới 2 tuần tuổi, tiêm 1ml/con và nhắc lại sau 3 ngày.
- Với vịt trên 2 tuần tuổi, tiêm 1.5 – 2ml/con và nhắc lại sau 3 ngày.
Nếu số lượng đàn quá lớn không thể tiêm, có thể hòa kháng thể dịch tả vịt vào nước cho vịt uống với liều gấp đôi liều tiêm. Phân và rác cần được ủ nóng, chuồng trại phải tẩy uế bằng các dung dịch sát trùng như formol 3% – 5%, NaOH 2% hoặc nước vôi đặc. Chuồng cần để trống ít nhất 1 tháng trước khi nhập vịt mới.